9 bệnh thường gặp khi nuôi cá tra bà con cần biết

Dưới đây là tổng hợp thông tin về những căn bệnh thường gặp khi nuôi cá tra để bà con dễ dàng chủ động trang bị thông tin, phòng ngừa. Công tác phòng ngừa tốt sẽ giúp giảm thiểu chi phí điều trị, hóa chất, kháng sinh, quan trọng hơn là đảm bảo chất lượng cá đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng khắt khe.

9 bệnh thường gặp khi nuôi cá tra bà con cần biết

 

Bệnh gan thận mủ trên cá tra

Gan thận mủ là một trong những bệnh thường gặp khi nuôi cá tra, bệnh xảy ra quanh năm, nhiều lần nhưng nặng nhất thường vào lúc giao mùa, bùng phát mạnh vào mùa mưa.

– Nguyên nhân:

Tác nhân gây bệnh gan thận mủ trên cá tra chủ yếu do vi khuẩn Edwardsiella ictaluri xâm nhập từ môi trường nước qua da, mang cá hoặc qua miệng.

– Triệu chứng:

Khi cá mới nhiễm triệu chứng thường không rõ ràng, khó nhận diện. Sau một thời gian nhiễm, cá có hiện tượng tách đàn, bơi lờ đờ, giảm ăn, bỏ ăn, tỷ lệ chết cao. Khi mổ cá sẽ thấy những đốm trắng đục kích cỡ từ 1 – 3mm trên gan, thận và tỳ trạng.

Bệnh gan thận mủ trên cá tra.
Bệnh gan thận mủ trên cá tra.

– Điều trị:

Cho cá ăn kháng sinh (như Steptomycin, Kanamycin, Osamet Fish) đúng liều theo hướng dẫn, liên tục từ 5 – 7 ngày, từ ngày thứ 2 trở đi giảm 1/2 liều. Kết hợp xử lý nước bằng chất diệt khuẩn. Bổ sung vitamin C vào thức ăn cá để tăng đề kháng. Nên tăng cường quạt nước, thay 20 – 30% nước ao, nên thay ở tầng đáy.

Bệnh xuất huyết đường ruột trên cá tra

Bệnh xuất huyết đường ruột trên cá tra thường xuất hiện vào những tháng mùa khô, nắng nóng, nhiệt độ từ 28 độ C. Bệnh có tỷ lệ tử vong cao, lây lan nhanh gây tổn thất lớn.

– Nguyên nhân:

Bệnh xuất huyết đường ruột trên cá tra là bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn. Tác nhân gây bệnh xuất huyết là các loài Aeromonas di động, bao gồm A. hydrophila, A. caviae, A. sobria.

– Triệu chứng:

Cá nhiễm bệnh xuất huyết đường ruột thường có hiện tượng bụng chướng to, hậu môn lồi, sưng đỏ, vây bụng xung huyết. Cá có hiện tượng biếng ăn, bỏ ăn, bơi lờ đờ, tách đàn.

Cá tra bị bệnh xuất huyết.
Cá tra bị bệnh xuất huyết.

– Điều trị:

Để trị bệnh xuất huyết đường ruột trên cá tra, bà con dùng Sunfathiazon 6g + 0.5g Thiromin/100kg cá hoặc Sunfaguanidin 10g/70kg thức ăn tự chế biến. Bà con cho cá ăn liên tục trong 5 ngày, từ ngày thứ 3 giảm liều lượng xuống còn một nửa.

Để phòng bệnh, bà con có thể dùng cây cỏ mực thái nhỏ nấu cùng với thức ăn tự chế biến rồi cho cá ăn. Cách 1 tuần cho cá ăn 1 lần. Liều lượng 1kg cỏ mực + 70kg thức ăn.

Bệnh trắng đuôi trên cá tra

Bệnh trắng đuôi trên cá tra còn gọi là bệnh columnaris, thường xảy ra ở giai đoạn cá nhỏ, tỷ lệ chết rất cao trong vài ngày nhiễm, đặc biệt sau khi vận chuyển cá về thả nuôi.

– Nguyên nhân:

Bệnh chủ yếu do vi khuẩn Flavobacteriumcolumnare (trước đây vi khuẩn này có tên là Flexibacter columnaris) gây ra, cá bị sốc do vận chuyển hay nhiệt độ môi trường tăng cao bị bệnh này nhiều.

– Triệu chứng:

Cá giảm ăn hoặc bỏ ăn, thường bơi lờ đờ gần mặt nước, có thể nhìn thấy vệt trắng ở đuôi. Bệnh nhẹ thì da có vệt trắng ở thân và cuốn đuôi, vây nhiều nhớt và có cụm màu vàng do vi khuẩn bám, mang có màu đỏ sẫm hoặc hồng nhạt. Bệnh nặng, cá có nhiều vết trắng ở thân, lưng đồng thời mất nhớt, vây tưa rách, đuôi mòn cụt, mang có màu xám trắng và hoại tử, đôi khi vết loét hình thành ăn sâu vào bên trong cơ cá.

– Điều trị:

Bà con có thể dùng thuốc tím, muối và formol. Sử dụng kháng sinh rifampin, ampicillin và tetracyclin. Trường hợp nặng có vết thương hoặc hoại tử trên thân cá thì dùng Oxytetracyclin 20mg/l tắm diệt khuẩn tạp nhiễm. Khi dùng không nên kết hợp với ampicillin, erythromycin, colistin vì sẽ gây tác dụng đối kháng làm giảm tác dụng.

Trước khi trị bệnh, cần làm sạch thức ăn dư thừa và cá chết. Cứ mỗi 24 giờ lượng nước cũ cần được hút ra phân nửa và sau đó thay lượng thuốc mới vào. Trị liên tục 5- 7 ngày, cắt giảm lượng thức ăn, chỉ dùng 1% trọng lượng thân trong thời gian điều trị. Đồng thời trong quá trình xử lý bệnh, nên bổ sung thêm vitamin C để giúp cá tăng đề kháng.

Để phòng bệnh bà con cần quản lý môi trường nuôi hiệu quả, tránh để cá bị sốc. Không bắt, thả cá vào những ngày thời tiết nắng nóng, nhiệt độ cao. Chọn cá giống khỏe, nuôi mật độ vừa phải, tích cực các biện pháp nâng cao hệ miễn dịch cho cá.

Bệnh đốm da, trắng da trên cá tra:

Bệnh đốm da, trắng da xảy ra rất nhanh, tốc độ gây chết cá hàng loạt vô cùng cao nên bà con cần chủ động phòng, phát hiện sớm để kịp thời điều trị.

– Nguyên nhân:

Bệnh xuất hiện chủ yếu khi cá bị xây xát do quá trình đánh bắt, san ao, vận chuyển hoặc khi nhiệt độ môi trường ao thay đổi đột ngột, thường là khi quá cao.

– Triệu chứng:

Cá nhiễm bệnh thường bỏ ăn, gốc vây lưng xuất hiện nhiều vết đốm trắng, sau đó lan dần ra đến toàn thân và cuống đuôi. Khi tình trạng bệnh nặng, có có hiện tượng bơi lờ đờ ngang mặt nước rồi lộn đầu xuống và chết.

– Điều trị:

Sử dụng kháng sinh và thuốc điều trị thế hệ mới trộn vào thức ăn tự chế biến hoặc nghiền mịn và pha thành dung dịch ngâm thức ăn viên cho cá ăn. Sunfadimezin 5g + Oxytetracyclin 2g/100kg cá kết hợp trộn vào thức ăn Superfact 250g/100kg thức ăn. Từ ngày thứ 3 trở đi, liều lượng giảm một nửa, cá có thể sẽ khỏi bệnh sau 5 ngày dùng thuốc.

Bệnh do ký sinh trùng trên cá tra

Bệnh ký sinh trùng trên cá (đặc biệt là ngoại ký sinh trùng) là bệnh thường gặp, mức độ nguy hiểm chết cá cao, do đó bà con cần chủ động phòng ngay từ đầu vụ.

– Nguyên nhân:

Bệnh chủ yếu do nhiệt độ môi trường xuống thấp, nhất là vào thời tiết âm u, mưa lũ kéo dài, hàm lượng chất hữu cơ tập trung cao, tạo điều kiện ký sinh trùng phát triển trong nước, tấn công cá.

– Triệu chứng:

Ký sinh trùng thường ký sinh trên da, vây, đuôi, mắt, mũi, mang, miệng,… hoặc trong nội tạng như gan, ruột, túi mật. Khi ký sinh chúng gây ra vết thương khiến cá suy nhược, tạo điều kiện cho vi khuẩn tấn công gây tử vong.

Cá tra nhiễm giun tròn.
Cá tra nhiễm giun tròn.

– Điều trị:

Để điều trị bà con giảm 50% thức ăn, có thể ngưng cho cá ăn 1 – 2 ngày, thay 30 – 50% nước ao. Chẩn đoán đúng bệnh có phương pháp điều trị hiệu quả. Các hóa chất thường dùng như muối ăn, thuốc tím, Formaline, CuSO4,… liều lượng và cách dùng theo hướng dẫn nhà sản xuất.

Bệnh vàng da, vàng kỳ trên cá tra

Bệnh vàng da trên cá tra thường xảy ra ở giai đoạn thương phẩm làm thiệt hại lớn với tỷ lệ chết cao.

– Nguyên nhân:

Hội chứng vàng da, vàng kỳ trên cá tra do các tác nhân:

  • Con giống khi ương lạm dụng kháng sinh, ảnh hưởng đến hệ thống gan mật.
  • Môi trường ao nuôi dơ, nhiều chất hữu cơ, tảo lam phát triển dày đặc khiến thịt cá chuyển vàng và có mùi bùn đất.
  • Không xổ giun định kỳ, giun sán tạo kén ở gan và cuống mật, cá tắc mật dẫn đến da và mang bị vàng.
  • Xảy ra sau khi điều trị xuất huyết, gan thận mủ, trắng mang trắng gan.

– Triệu chứng:

  • Đa số tế bào hồng cầu bị thoái hoá.
  • Bệnh nặng tế bào hồng cầu chỉ còn 10-20% .
  • Xoang chứa dịch vàng, túi mật sưng to, sậm màu.
  • Các mô mỡ và cơ cá có màu vàng nhạt đến vàng sậm.
  • Cá nổi đầu, giảm ăn, bơi lờ đờ, phản ứng chậm với tiếng động.

– Điều trị:

Để điều trị bệnh bà con có thể dùng một số sản phẩm bổ gan, lợi mật như Novitol, Hepatol,… Để phòng bệnh bà con chú ý tăng cường sục khí ao, định kỳ vệ sinh đáy để hạn chế vấn đề ô nhiễm. Đặc biệt cải tạo ao kỹ trước mỗi mùa vụ. Đồng thời nên hạn chế sử dụng kháng sinh. Định kỳ nên tẩy giun sán cho cá.

Bệnh nấm thủy mi trên cá tra

Bệnh nấm thủy mi gây hại cho cá từ giai đoạn trứng cho đến trưởng thành. Bệnh thường xuất hiện ở những ao nuôi nhiễm bẩn, nuôi với mật độ quá dày. Bệnh thường xảy ra ở thời điểm giao mùa, khi đang nắng nóng chuyển sang mưa rào, nhiệt độ cao xuống thấp.

– Nguyên nhân:

Tác nhân gây bệnh là một số loài nấm thuộc các giống Achlya, Saprolegnia, Leptolegnia… Chúng có dạng sợi, thuộc nhóm nấm cấp bậc thấp, sinh sản bằng nhiều hình thức, sinh sôi rất nhanh ở nhiều dạng, bào tử nấm có tiên mao có thể vận động trong nước nên khả năng lây lan rất cao. Bệnh thường phát triển khi cá bị thương tổn trên da do chịu tác động đánh bắt, vận chuyển hay ký sinh trùng ký sinh.

– Triệu chứng:

Khi bệnh ở mức nhẹ khá khó để phát hiện bằng mắt thường. Khi bệnh diễn biến nặng, da cá sẽ bắt đầu xuất hiện các vùng trắng xám, vài ngày sẽ mọc lên các sợi nấm mảnh và phát triển thành từng búi nấm trắng như bông. Cá sẽ có hiện tượng bơi hỗn loạn do bị kích thích ngứa ngáy, chúng thích cọ sát vào vật thể trong nước làm tróc vẩy. Lúc này là cơ hội cho vi khuẩn và ký sinh trùng xâm nhập gây bệnh khiến tình trạng nghiêm trọng hơn.

Khi thời tiết thay đổi đổi ngột, nấm thủy mi là bệnh thường gặp khi nuôi cá tra, bà con cần chú ý.
Khi thời tiết thay đổi đổi ngột, nấm thủy mi là bệnh thường gặp khi nuôi cá tra, bà con cần chú ý.

– Điều trị:

Tắm cho cá trong nước muối 2 – 3% hoặc dung dịch thuốc tím 20mg/lít trong 10 – 15 phút. Ao ương cần thay nước sạch thường xuyên để hạn chế sự phát triển của bệnh. Để phòng bệnh bà con chú ý không nuôi quá dày, dọn sạch ao sau các vụ nuôi, trước khi thả nên tắm cá giống qua nước muối liều lượng 2 – 4g/lít. Chú ý thức ăn cần đảm bảo, đúng liều lượng. Mặt khác nên thay nước ao thường xuyên cho cá.

Bệnh trùng bánh xe trên cá tra

Bệnh trùng bánh xe là bệnh thường gặp khi nuôi cá ca phổ biến ở giai đoạn cá giống, xuất hiện quanh năm nhưng phổ biến ở mùa mưa, thời tiết mát mẻ. Nếu không điều trị kịp thời bệnh có tỷ lệ hao hụt đến 80%.

– Nguyên nhân:

Trùng bánh xe thường ký sinh trên da, mang, khoang mũi của cá. Chúng thường xuất hiện ở những ao, bể ương nuôi mật độ dày, môi trường nuôi quá dơ bẩn.

– Triệu chứng:

Khi mới nhiễm bệnh, thân cá có lớp nhớt hơi trắng đục, cá thường nổi và thích tập trung ở nơi nước chảy. Quan sát dưới nước sẽ thấy rõ hơn khi bắt lên cạn. Khi bệnh nặng có lờ đờ rồi chìm xuống đáy ao và chết.

– Điều trị:

Dùng nước muối 2 – 3% tắm cho cá bệnh từ 5 – 15 phút. Dùng đồng sunfat nồng độ 2 – 5mg/lít tắm cho cá 10 – 15 phút hoặc phun trực tiếp xuống ao nồng độ 0.5 – 0.7g/m3 nước. Phối hợp sunfat đồng 0.5g/m3 phun hoặc rắc đều xuống ao nhằm diệt trực tiếp trùng bánh xe và ký sinh trên cá.

Bệnh do sán lá trên cá tra

Bệnh sán lá là bệnh thường gặp khi nuôi cá tra nhất, chúng xuất hiện quanh năm, nhiều vào mùa mưa, tỷ lệ lây nhiễm nhanh. Giun sán sẽ hút dinh dưỡng làm cá chậm lớn, tiêu tốn thức ăn.

– Nguyên nhân:

Sán lá thường ký sinh trên da, mang cá ở giai đoạn cá giống và nuôi thịt. Theo nghiên cứu thì giống sán lá đơn chủ 16 móc và sán lá 18 móc là chủ yếu. Đối với cá tra ở giai đoạn cá hương và cá giống thì tỷ lệ nhiễm lên tới 100% và mật độ nhiễm >70 sán/cá.

– Triệu chứng:

Sán gây viêm loét, thối rữa các vùng da ký sinh, khiến vi khuẩn, nấm dễ dàng xâm nhập gây bệnh. Khi nhiễm sán nặng, các tổ chức tế bào sừng to, xương nắp mang phồng lên, cơ thể thiếu máu dẫn đến gầy yếu, bơi lội chậm chạp. Cá ít hoạt động, nằm ở đáy hoặc nổi lên mặt nước để đớp không khí, mất khả năng vận động, bơi ngửa bụng và chết.

– Điều trị:

Để trị bệnh bà con dùng nước muối 3 – 4% hoặc đồng sunfat 5 – 7g/m3 tắm cho cá 5 – 10 phút. Dùng Formol nồng độ 15 – 20g/m3 phun trực tiếp xuống ao. Để phòng bệnh sán lá trên cá tra, bà con có thể sử dụng lá cây giác đập dập (Cayratia trifolia) và bó thành bó nhỏ treo ở đầu bè. Ngoài ra bà con có thể dùng vôi bột 5g/m3 để phòng bệnh. Chú ý định kỳ 3 tháng 1 lần tẩy giun cho cá, mỗi đợt diễn ra trong 3 ngày liên tục.

Trên đây là những bệnh thường gặp khi nuôi cá tra bà con cần biết. Có thể thấy, khi nhiễm bệnh, bà con cần sử dụng kháng sinh, vừa tốn kém chi phí vừa giảm chất lượng cá, giảm cạnh tranh. Chính vì vậy, cách tốt nhất vẫn là chủ động phòng bệnh.

Để được hỗ trợ tư vấn nuôi cá tra an toàn sinh học, giảm thiểu nguy cơ dịch bệnh, bà con vui lòng liên hệ HOTLINE 0909 538 514.

>>>Xem thêm: Kỹ thuật nuôi cá tra thương phẩm đạt năng suất cao.

Để lại một bình luận