Bám sát tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, định hướng phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, ngành thuỷ sản nhìn nhận rõ tình hình thực tiễn từ đó có chiến lược phát triển phù hợp trong kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc. Cùng BIOGENCY theo dõi qua bài viết dưới đây nhé!
Sự phát triển của ngành nuôi trồng và xuất khẩu thủy sản qua các năm
Ngành thủy sản Việt Nam trải qua 66 năm hình thành, phát triển, không ngừng đổi mới, từng bước khẳng định vị thế trong nền kinh tế quốc gia cũng như kinh tế toàn cầu. Cùng nhìn lại các thống kê về sản lượng nuôi trồng và xuất khẩu của ngành thủy sản trong những năm từ 2018-2024 để có hình dung chi tiết hơn.
Năm 2018, sản lượng cua ngành thủy sản Việt Nam đạt 7,7 triệu tấn đến năm 2024 con số này là 9,5 triệu tấn, tăng 23%. Trong đó, sản lượng nuôi trồng chiếm 58%, khai thác chiếm 42%.

Nuôi trồng: Sản lượng nuôi trồng thủy sản của Việt Nam tăng từ 4,1 triệu tấn lên 5,7 triệu tấn, tăng 38%. Trong đó, nuôi trồng thủy sản phục vụ cho xuất khẩu tập trung chủ yếu ở khu vực ĐBSCL (trong đó cá tra chiếm 95% tổng sản lượng và tôm chiếm 80% sản lượng).

Khai thác: Sản lượng khai thác thủy sản của Việt Nam tăng từ 3,59 triệu tấn lên 3,82 triệu tấn, tăng 7% từ năm 2018 đến năm 2024.
Xuất khẩu: Xuất khẩu Thuỷ sản tăng từ 8,80 tỷ USD năm 2018 lên 10 tỷ USD năm 2024.

Có thể thấy, với mức tăng trưởng mạnh đã giúp thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, giúp Việt Nam nằm trong ba quốc gia xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới, đóng vai trò chủ đạo trong chuỗi cung ứng thuỷ sản toàn cầu.
Áp dụng khoa học công nghệ trong ngành thủy sản – có thành tựu nhưng chưa thực sự là động lực dẫn dắt
Với định hướng phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực thuỷ sản, TS. Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư nhận định những điểm khởi sắc của ngành như trong công tác chọn tạo giống, hoàn thiện quy trình nuôi, phát triển thức ăn thủy sản, tập trung vào các đối tượng nuôi chủ lực như tôm, cá tra, rô phi… Cụ thể:
- Ngành đã chọn tạo được 35 giống thủy sản.
- Xây dựng công thức thức ăn cho một số đối tượng như cá tra, tôm hùm, ốc hương, cá biển.
- Đã công nhận 64 quy trình công nghệ về nuôi, sản xuất giống, quản lý bệnh.
- Ban hành 77 tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (TCVN, QCVN) về giống, thức ăn, sản phẩm xử lý môi trường cho các đối tượng tôm, cá nước ngọt, cá biển, nhuyễn thể…
- Công nghệ truy xuất nguồn gốc cũng được ứng dụng ngày càng rộng rãi.
- Công tác nghiên cứu, cải tiến ngư cụ, thiết bị, quy trình kỹ thuật trong khai thác và bảo quản sau thu hoạch được chú trọng; góp phần bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản.
- Công nghệ chế biến sâu, sản phẩm ăn liền, sản phẩm giá trị gia tăng tiếp tục được đẩy mạnh, bảo đảm chất lượng và an toàn thực phẩm.
Tuy nhiên, ông cũng nhận định, tổng thể hoạt động KHCN chưa thực sự trở thành động lực dẫn dắt ngành thuỷ sản. Các nghiên cứu tiên phong vẫn còn hạn chế, chất lượng giống vẫn là điểm yếu lớn, bằng chứng là giống cá tra ở giai đoạn ương có tỷ lệ sống thấp; giống cá biển vừa thiếu số lượng, vừa kém chất lượng; giống tôm hùm, nhuyễn thể… phần lớn vẫn phụ thuộc vào khai thác tự nhiên. Rủi ro dịch bệnh, ô nhiễm môi trường còn phổ biến.

Mặc dù đã có nhiều doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu đạt quy mô hàng đầu thế giới nhưng nhìn chung tỷ lệ sản phẩm chế biến sâu còn thấp, sản phẩm phi thực phẩm từ phụ phẩm thủy sản chưa phát triển mạnh mẽ.
Công nghệ khai thác và bảo quản trên tàu cũng chưa đáp ứng yêu cầu. Việc chưa hiểu rõ quy luật sinh trưởng, phân bố của các loài thủy sản khiến tổn thất sau thu hoạch cao hơn mức trung bình toàn cầu. Các nghiên cứu thị trường, quản trị chuỗi giá trị, phục vụ xây dựng chính sách còn ít hoặc thiếu tính thực tiễn. Nhiều nhiệm vụ khoa học công nghệ còn nhỏ lẻ, rời rạc, thiếu tính kết nối. Số lượng doanh nghiệp tham gia ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ còn hạn chế.
Định hướng phát triển khoa học công nghệ cho ngành thủy sản: Tập trung cho các chương trình dài hơi, công nghệ chiến lược
Trước thực tiễn trên, TS. Trần Đình Luân nhấn mạnh, ngành sẽ xây dựng các chương trình, dự án khoa học công nghệ dài hạn, nhằm chọn tạo giống thủy sản có khả năng sinh trưởng nhanh, kháng bệnh, thích nghi với điều kiện bất lợi, phù hợp với nuôi công nghiệp. Đồng thời, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ nuôi tiên tiến; ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT) nhằm tiết kiệm nước, thức ăn, giảm phát thải, bảo vệ môi trường và bảo đảm an toàn thực phẩm.
Ngành cũng sẽ tập trung phát triển giống và nuôi thương phẩm các đối tượng tiềm năng như cá biển quy mô lớn, cá nước mặt quy mô công nghiệp; sản xuất giống rong biển chất lượng cao, xây dựng quy trình canh tác phù hợp với các vùng biển mở.
Đồng thời, xây dựng chương trình dịch tễ học bệnh thủy sản cho các đối tượng có giá trị kinh tế, đặc biệt với các bệnh mới nổi trên các đối tượng nuôi chủ lực; nghiên cứu sản xuất vaccine, thuốc thú y thủy sản, sản phẩm thay thế kháng sinh. Có quy trình giám sát chủ động, hướng dẫn phòng trị bệnh hiệu quả và bảo đảm an toàn thực phẩm.

Ngành cũng định hướng phát triển công nghệ khai thác hiện đại, cơ giới hóa, bảo quản hải sản tiên tiến trên tàu; nghiên cứu công nghệ chế biến sâu để đa dạng hóa sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó là hoàn thiện, vận hành hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về thủy sản, kiểm ngư; kết nối, chia sẻ dữ liệu “đúng, đủ, sạch, sống” trong toàn ngành. AI sẽ được ứng dụng trong phân tích, cảnh báo thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và phòng chống dịch bệnh.
Nguồn nhân lực vẫn là khâu yếu, vì vậy ngành xác định sẽ gắn đào tạo với doanh nghiệp để từng bước nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu đổi mới. Ngoài ra, ngành thủy sản sẽ đẩy mạnh hợp tác quốc tế, hợp tác công – tư với các quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế, tập đoàn đa quốc gia, viện nghiên cứu, trường đại học hàng đầu thế giới trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Nguồn: Đại biểu nhân dân.
>>>Xem thêm: Áp dụng kinh tế tuần hoàn để nuôi trồng thủy sản bền vững.