Cá chình là một loại cá hiếm, thịt ngon, giàu dinh dưỡng. Đây cũng là loại cá có tập tính sinh trưởng và sinh sản khá đặc biệt. Cùng BIOGENCY tìm hiểu chi tiết hơn về loài cá này qua bài viết sau.
Thông tin khoa học, nguồn gốc và phân bố
Cá chình có tên khoa học là Anguilla thuộc bộ cá chình Anguilliformes. Hiện nay trên thế giới có khoảng 20 loại cá chình, phân bố ở khắp mọi nơi trừ Bắc cực, Nam cực. Ở nước ta, loài cá chình được phát hiện và xác định tên khoa học lần đầu tiên là loài cá chình Nhật Bản vào năm 1937. Đến năm 1975 ở Nam Trung bộ đã phát hiện thêm một số loài nữa, cho đến thời điểm này ở nước ta có các loại cá chình: cá chình Nhật Bản Anguilla japonica, cá chình hoa Anguilla marmorata, cá chình nhọn Anguilla malgumora, cá chình mun Anguilla bicolor.
Nhìn chung các loài cá chình ở nước ta phân bố chủ yếu ở các vùng ven biển, cửa sông, các đầm, hồ, sông, suối nước ngọt từ Hà Tĩnh đến Vũng Tàu, Tây Nguyên và đảo Phú Quốc. Tuy nhiên, vùng có số lượng nhiều là các tỉnh từ Thừa Thiên Huế đến Khánh Hòa.

Dựa vào tập tính sinh sống, người dân thường phân cá chình thành 2 nhóm là cá chình biển và cá chình sông/suối.
Phần lớn các loài cá chình thường sinh sống ở các vùng nước nông và sâu, ẩn mình dưới đáy biển. Chỉ có một họ cá chình duy nhất Anguilla rostrata có tập tính sinh trưởng tại vùng nước ngọt rồi lại quay ngược về biển để sinh sản, mà chúng ta thường biết đến chúng với tên gọi cá chình suối hay cá chình sông. Chình biển có vây rộng, bơi lội uyển chuyển, cực kỳ khỏe, sống dai lại sở hữu hàm răng sắc nhọn với những cú đớp rất mạnh.
Đặc điểm hình dạng của cá chình
Cá chình thuộc họ cá da trơn với lớp da dày và nhớt, thân tròn lẳng và dài chừng 40-50 cm, đuôi dẹt, đầu nhọn, bụng màu xám hoặc trắng nhạt. Thoạt nhìn sẽ trông giống con lươn hoặc rắn biển. Vì thế, ngư dân còn thường gọi chúng với tên dân gian là lươn biển hay rắn biển.
Cá chình bông có thân hình trụ dài dạng chiếc chiếu, nhỏ, dạng trái xoan và vây chạy quanh ngực, có môi dày, mắt bé, miệng hơi chếch, có màu vàng với màu nâu xanh đến đen trên lưng và bụng màu trắng, con nhỏ có màu hơi xám đến vàng. So với các loài cá khác thì tốc độ sinh trưởng của cá Chình bông sống trong tự nhiên được xác định là thấp hơn nhiều so với các loài cá khác, nhưng so sánh với các loài cá khác thuộc giống Anguilla thì Chình bông có tốc độ sinh trưởng cao nhất.
Môi trường sống của cá chình
Cá chình là loài cá có phạm vi thích nhiệt rộng, từ 1- 30 độ C cá đều có thể sống được. Nhiệt độ sinh trưởng thích hợp nhất là 25 – 27 độ C. Khi nhiệt độ tầng mặt vượt ngưỡng trên thì cá bơi về chỗ nước sâu hay chui vào bùn, hang hốc nơi có nhiệt độ thấp hơn.
Hàm lượng oxy hòa tan là yếu tố cần thiết nhất đối với sự sống của cá chình, hàm lượng oxy hòa tan tối thiểu trong nước mà cá chình có thể chịu đựng được trong khoảng từ 0,5 – 20 mg/l. Cá càng lớn thì lượng tiêu hao oxy càng nhiều, hàm lượng oxy hòa tan thích hợp cho cá chình là từ 5 – 10 mg/l.
Trong tự nhiên, cá chình có thể sống ở môi trường có giá trị pH từ 4 – 10, giá trị pH thích hợp nhất cho cá phát triển là từ 7 – 8. Khi nồng độ muối thay đổi mạnh, cá có khả năng điều tiết áp suất thẩm thấu của cơ thể.
Tập tính sống của cá chình
Cả cuộc đời cá chình liên quan mật thiết với dòng nước chảy, cá bố mẹ khi đến tuổi thành thục xuôi dòng di cư ra biển để đẻ trứng. Cá bột sau khi biến thái thành ấu trùng hình lá trôi theo dòng hải lưu và thủy triều, sau khi biến thái thành cá bột trắng mới đi vào nước ngọt, ngược lên thượng lưu, cần một ít nước chảy là vượt qua đồng ruộng hay bãi cỏ, thậm chí có vách đứng cá bột cũng có thể vượt qua, khi cá lớn dần thì tập tính trên cũng giảm đi.
Trong đời sống cá chình phần lớn thời gian sống ở nước ngọt, nhưng khi cá bố mẹ ra biển đẻ trứng thì lại thích ứng với nước biển.
Cá chình là loài cá ăn thịt, ở giai đoạn cá còn nhỏ chúng chủ yếu ăn luân trùng, tảo, ấu trùng côn trùng, các loại ốc, hến, mảnh vụn hữu cơ. Khi cá nặng khoảng 5g bắt đầu đuổi bắt mồi ăn cá con, tôm con, xác các động vật chết, lúc thiếu thức ăn chúng tranh cướp thức ăn lẫn nhau.

Tập tính sinh sản của cá chình
Cá chình sống ở nước ngọt, di cư ra biển sâu đẻ trứng. Trứng nở ra thành cá bột có hình dẹt như lá liễu, sau 1 năm mới trôi dạt vào cửa sông. Hàng năm cuối đông đầu xuân cá con tập trung ở vùng cửa sông di cư vào vùng nước ngọt và sinh trưởng ở đấy. Cá sinh trưởng chậm, nhất là cỡ từ 300g trở nên tốc độ sinh trưởng chỉ bằng 1/10 tốc độ sinh trưởng của giai đoạn cá có trọng lượng 70 – 100g.
Khi còn nhỏ tốc độ sinh trưởng của cá trong đàn tương đương nhau, nhưng khi đạt chiều dài hơn 40cm con đực lớn chậm hơn con cái, một con cá cái trưởng thành có thể đẻ 700 vạn đến 1.300 vạn trứng. Cá chình hoạt động ban đêm, sợ ánh sáng, di cư nhanh, ban ngày núp trong các khe đá, hang hốc hoặc nằm im dưới đáy, những đêm trăng sáng không di cư, chỉ có những đêm tối trời, đặc biệt là lúc mưa to cá tập trung thành đàn từ cửa sông đi ra biển, đã đi là không trở lại nữa.

Cá chình là loài thủy đặc sản quý, có giá trị kinh tế cao, hàm lượng protein của thịt cá chình cao hơn thịt bò, thịt lợn và trứng gà, đặc biệt là hàm lượng vitamin rất cao, ở Trung Quốc coi cá chình là “nhân sâm dưới nước”.
Chính vì giá trị cao mà nhiều nước trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu theo hướng điều khiển sinh sản giống cá chình và sản xuất cá giống nhân tạo. Tuy nhiên cho đến nay, ngành kinh tế nuôi cá chình thương phẩm ở các nước chủ yếu vẫn sử dụng nguồn cá giống thu vớt, đánh bắt trong vùng nước tự nhiên.
Hiện lượng cá chình giống đánh bắt tự nhiên ngày càng khan hiếm, việc đánh bắt ngày càng khó khăn khiến giá thành cá chình trở nên đắt đỏ. Các mô hình cá chình nuôi ao đất, bể xi măng hoặc gạch được ưa chuộng, mang lại giá trị kinh tế cao.
>>> Xem thêm: Tảo phát triển quá mức trong ao nuôi cá, làm sao để xử lý?

