5 nguyên nhân gây giảm tỷ lệ sống khi ương cá tra giống

Thị trường ương cá tra giống ở nước ta vẫn chưa khởi sắc, tỷ lệ sống của cá tra giống sau ương vẫn còn ở mức thấp. Vậy đâu là nguyên nhân? Cùng BIOGENCY điểm qua tình hình thị trường ương cá tra giống cũng như 5 nguyên nhân nổi bật làm giảm tỷ lệ sống cá tra khi ương.

5 nguyên nhân gây giảm tỷ lệ sống khi ương cá tra giống

Thống kê thị trường sản xuất / ương cá tra giống ở Việt Nam

Theo Báo cáo ngành hàng cá tra giai đoạn 2015-2024 thì hiện cả nước có 1.920 cơ sở sản xuất, ương cá tra giống, trong đó, 2 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống bố mẹ; 76 cơ sở sản xuất giống và 1.842 cơ sở ương dưỡng cá tra bột lên cá giống.

Về giống cá tra, hiện có hơn 240.000 con cá bố mẹ sẵn sàng tham gia sinh sản. Trong đó, 180.000 con được tuyển chọn từ cá nuôi thương phẩm và 60.000 con là cá tra chất lượng cao do Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản II chuyển giao từ nguồn Chương trình giống 2016 – 2020 (40.000 con đã sinh sản và 20.000 con tham gia sinh sản lần đầu).

Tỷ lệ cơ sở sản xuất, ương cá tra giống được cấp chứng nhận còn rất thấp.
Tỷ lệ cơ sở sản xuất, ương cá tra giống được cấp chứng nhận còn rất thấp.

Đến hết tháng 10/2024, sản lượng cá bột 25,95 tỷ con; cá giống 3,9 tỷ con. Ước cả năm 2024, sản lượng cá bột 30 tỷ con; cá giống 4,0 tỷ con (bằng 116% năm 2023). Căn cứ vào báo cáo của địa phương thì tỷ lệ ương dưỡng cá bột thành cá giống còn thấp hơn.

5 nguyên nhân gây giảm tỷ lệ sống khi ương cá tra giống

Nguyên nhân làm giảm tỷ lệ sống khi ương cá tra giống đến từ nhiều khía cạnh, từ chất lượng di truyền, sự đồng đều của trứng, cách chuẩn bị ao ương, đến chế độ dinh dưỡng và kỹ thuật quản lý mật độ. Dưới đây là phân tích cụ thể giúp bà con nhận diện chi tiết hơn.

– Yếu tố di truyền – lai cận huyết:

Tình trạng thiếu hụt nguồn giống bố mẹ chất lượng cao, số lượng cá bố mẹ chọn lọc chưa đủ đáp ứng nhu cầu của hàng ngàn cơ sở sản xuất giống khiến nhiều nơi buộc phải lai đàn cũ, dễ dẫn đến lai cận huyết. Yếu tố cận huyết cũng bắt nguồn từ việc nhiều cơ sở chỉ duy trì một số lượng giống nhỏ cá bố mẹ để tiết kiệm, cho sinh sản lặp lại trong nhiều năm cùng đàn.

Lai cận huyết làm giảm khả năng sống của cá giống, tăng khả năng cá dị hình, dị tật, miễn dịch yếu, dễ bị tấn công bởi nấm, vi khuẩn, ký sinh trùng.

Bên cạnh đó, tình trạng sử dụng thức ăn, thuốc hỗ trợ kích dục tố, gây chín và rụng trứng trong quá trình kích thích cá sinh sản để lại những hệ lụy không nhỏ đến chất lượng cá bố mẹ sau nuôi vỗ, chất lượng trứng, cá bột và tỷ lệ sống cá giống sống khi ương.

Di truyền là yếu tố tiên quyết ảnh hưởng đến tỷ lệ sống khi ương cá tra giống.
Di truyền là yếu tố tiên quyết ảnh hưởng đến tỷ lệ sống khi ương cá tra giống.

– Thiếu sự đồng bộ các mẻ trứng:

Một trong những nguyên nhân tác động không nhỏ chính là thiếu sự đồng bộ về chất lượng và giai đoạn trứng giữa các cá mẹ, dù cho bà con đã tính toán trọng lượng cá bố mẹ, thời gian chích thuốc kích dục tố, liều lượng kích dục tố…

Mặt khác, trong buồng trứng, chắc chắn sẽ có nhiều giai đoạn trứng phát triển. Ngay cả trong cùng giai đoạn IV, trong buồng trứng, có nhiều loại tế bào, ở mức độ thành thục khác nhau.

Chính vì điều này, dưới tác động của kích dục tố, quá trình phát triển phôi của từng mẻ trứng, giữa các cá thể cá cái, sẽ có sự chênh lệch về giai đoạn và thời gian phát triển phôi, hoặc ngầm hiểu là quá trình phân cắt, phát triển phôi không đồng nhất. Sự chênh lệch này, cùng tác động của nhiệt độ môi trường khác nhau, nên thời gian trứng nở sẽ kéo dài từ 18 -30 giờ hoặc hơn, tính từ khi đưa trứng vào bình Weys ấp.

Thông thường, thời gian đưa cá bột ra ao ương, được nhiều nhà chuyên môn khuyến cáo là 20 giờ, sau khi trứng nở ra cá bột toàn bộ.

Giữa các cá mẹ không đồng nhất về chất lượng và giai đoạn trứng làm giảm tỷ lệ sống khi ương cá tra giống.
Giữa các cá mẹ không đồng nhất về chất lượng và giai đoạn trứng làm giảm tỷ lệ sống khi ương cá tra giống.

Tuy nhiên, như đã đề cập trên, cùng sự tác động nhiệt độ khác nhau, sức khỏe từng bầy cá…tác động đến thời gian tiêu biến noãn hoàng khác nhau. Do vậy, trên thực tế thời gian hợp lý nhất cho cá ra ao ương sẽ sớm hơn 20 giờ.

Cho cá ra ao ương sớm, cá bột còn noãn hoàng, cá rất yếu, sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ sống. Ngược lại, cho cá bột ra ao ương trễ, khi khối noãn hoàng đã tiêu biến hết từ lâu, cá bột đói, sẽ ăn thịt lẫn nhau. Hiện tượng con lớn ăn con nhỏ xảy ra ngay trong bao oxy vận chuyển, gây hao hụt lớn, kéo dài đến khi kết thúc giai đoạn ương cá tra giống.

>>> Xem thêm: Cách chọn cá tra giống để quá trình nuôi đạt năng suất cao

– Chuẩn bị ao, hồ ương chưa kỹ:

Quá trình chuẩn bị ao, hồ ương không kỹ càng sẽ gây ảnh hưởng đến sức khỏe, điều kiện môi trường phù hợp để phát triển, tỷ lệ sống cá tra giống sau quá trình ương:

  • Nguồn nước chưa được khử trùng và kiểm soát, rò rỉ nước bẩn vào ao.
  • Ao chưa được diệt tạp triệt để, tạo điều kiện cho thiên địch phát triển.
  • Môi trường ao ương cá tra giống chưa được kiểm soát (pH, DO, nhiệt độ, chất hữu cơ, hàm lượng khí độc,…).

Sử dụng kháng sinh trong giai đoạn ương cá tra giống cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm tỷ lệ sống của cá tra.

Công tác chuẩn bị ao ương cá tra giống tác động đến tỷ lệ sống của cá tra.
Công tác chuẩn bị ao ương cá tra giống tác động đến tỷ lệ sống của cá tra.

– Dinh dưỡng ở mỗi giai đoạn ương cá tra giống chưa đảm bảo:

Dinh dưỡng là yếu tố then chốt quyết định tỷ lệ sống của cá tra trong giai đoạn ương, vì mỗi giai đoạn phát triển cá có nhu cầu thức ăn khác nhau. Nếu không đáp ứng đúng, cá chậm phát triển, dễ chết hàng loạt.

Giai đoạn đầu rất cần thức ăn tự nhiên (phytoplankton, zooplankton, rotifer, dapnhia…) để cá bột phát triển. Sau đó chuyển dần sang thức ăn công nghiệp phù hợp, bổ sung khoáng, vi chất và hạn chế kháng sinh.

Bà con lưu ý, nếu chọn không đúng loại thức ăn, đúng cỡ, đúng liều theo cỡ cá, số lần ăn sẽ dễ gây dư thừa, ô nhiễm ao.

>>> Xem thêm: Nuôi cá tra và cách quản lý thức ăn hiệu quả

– Không lọc cá để san thưa:

Lọc cá để san thưa (tách cá theo kích cỡ, mật độ hợp lý) là khâu kỹ thuật quan trọng trong ương cá tra giống, có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ sống. Bởi cá tra có tập tính ăn thịt lẫn nhau khi chênh lệch kích thước quá lớn, không san kịp thời tỷ lệ hao hụt rất cao.

Trên đây là 5 nguyên nhân làm giảm tỷ lệ sống khi ương cá tra giống. Hy vọng bài viết hữu ích với bà con. Để được hỗ trợ tư vấn về cách sử dụng men vi sinh cải thiện môi trường ao ương cá tra giống, bà con vui lòng liên hệ BIOGENCY qua HOTLINE 0909 538 514, đội ngũ kỹ thuật sẽ hỗ trợ nhanh chóng nhất!

>>> Xem thêm: Kỹ thuật nuôi cá tra thương phẩm đạt năng suất cao

Để lại một bình luận