Cùng với tốc độ phát triển, ngành cao su Việt Nam cũng đồng thời tạo áp lực lớn với môi trường và hệ sinh thái. Bên cạnh câu chuyện “phá rừng trồng cao su” là vấn đề về lượng nước thải khổng lồ từ quá trình chế biến, sản xuất cao su chứa nồng độ các chất ô nhiễm cao đến rất cao.
Tổng quan về sự phát triển của ngành cao su Việt Nam
Năm 1987, cây cao su được người Pháp mang đến Việt Nam, trồng chủ yếu ở các tỉnh Đông Nam Bộ như Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh. Từ năm 1955, một số doanh nghiệp và tiểu điền Việt Nam đã đầu tư trồng cao su ở miền Nam, sau đó là Tây Nguyên. Đến cuối năm 1960, tổng diện tích cao su tại Việt Nam đạt 142.000 ha và sản lượng khoảng 79.650 tấn.
Trong giai đoạn 1958 – 1963, cây cao su được trồng ở các tỉnh như Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Phú Thọ, chủ yếu bằng nguồn giống từ Trung Quốc. Diện tích canh tác tại các tỉnh này trong những năm này đạt khoảng 6.000 ha và giảm dần trong giai đoạn chiến tranh, còn khoảng 4.500 ha năm 1975. Đến năm 1975, diện tích cao su của cả nước còn khoảng 75.200 ha.

Nhận thức được tầm quan trọng của cây cao su đối với phát triển kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chính sách nhằm mở rộng diện tích cao su nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày càng cao của thị trường xuất khẩu.
Tuy nhiên chính sách cho phép mở rộng quỹ đất trồng cao su trên các diện tích đất lâm nghiệp đã đẩy diện tích sản xuất tăng nhanh. Diện tích mở rộng nhanh (cao su phát triển tự phát, đặc biệt là cao su tiểu điền). Điều này dẫn đến diện tích cao su của cả 6 nước vượt xa so với quy hoạch, tác động tiêu cực đến tài nguyên rừng.
Giá cao su thế giới giảm sâu kể từ năm 2012 trong khi sản lượng cao su tiếp tục gia tăng do diện tích thu hoạch mủ tiếp tục mở rộng. Các chính sách này cộng với giá cao su trên thị trường thế giới sụt giảm làm mất đi động lực mở rộng diện tích, thậm chí tại một số nơi, người dân quyết định chuyển đổi một số diện tích trồng cao su sang các loại cây trồng khác có giá trị kinh tế cao hơn.
Đến năm 2017, diện tích cây cao su tại Việt Nam đạt khoảng 969.700 ha, giảm 3.800 ha so với diện tích năm 2016 (973.500 ha) và giảm 15.900 ha so với diện tích của năm 2015 (985.600 ha). Năm 2017, sản lượng cao su của cả nước đạt 1.094.500 tấn khiến Việt Nam đứng thứ ba trên thế giới về sản xuất cao su thiên nhiên.
Đến nay, ngành cao su Việt Nam vẫn duy trì được sự ổn định thông qua việc xuất khẩu với giá cao đến các thị trường quốc tế, cùng với mức tiêu thụ liên tục ổn định.
Theo Hiệp hội các nước sản xuất cao su thiên nhiên (ANRPC), trong năm 2023, lượng tiêu thụ cao su thiên nhiên đạt 15,50 triệu tấn, tăng 9,1% so với năm 2022. Trong khi lượng khai thác chỉ tăng 3,4%, đạt 15,14 triệu tấn, dẫn đến một khoảng thiếu hụt 0,36 triệu tấn trên thị trường toàn cầu. Trong tháng 1/2024, giá trị xuất khẩu cao su của Việt Nam đã đạt 296 triệu USD, tăng 62,3% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong 7 năm qua của nước ta.
Vấn đề ô nhiễm môi trường từ quá trình chế biến cao su
Cùng với tốc độ phát triển, ngành cao su Việt Nam cũng đồng thời tạo áp lực lớn với môi trường và hệ sinh thái. Bên cạnh câu chuyện “phá rừng trồng cao su” dẫn đến mất rừng, suy thoái môi trường thì quá trình chế biến cao su cũng phát sinh một lượng nước thải khổng lồ chứa nồng độ các chất ô nhiễm cao đến rất cao.
Theo tính toán của các chuyên gia về lĩnh vực này, trung bình hệ số phát thải của ngành cao su là 25 m3 nước thải/tấn cao su khối khô hoặc cao su tấm, 35 m3/tấn sản phẩm từ cao su thải và 18 m3/tấn mủ cao su. Nước thải cao su thường chứa các hợp chất hữu cơ khó phân hủy, các chất rắn lơ lửng (TSS), và đặc biệt là các hợp chất chứa nitơ, như amoni (NH3-N) nồng độ các chất ô nhiễm cao. Ước tính COD có thể từ 1.000 -10.000 mg/l, BOD5 từ 1.700 – 9.000 mg/l và Tổng Nitơ từ 45 – 1.600 mg/l.

Điều đáng nói là nhiều nhà máy sản xuất cao su ở nước ta vẫn “lén” xả thải trực tiếp ra môi trường. Nước thải cao su có mùi hôi rất nồng nặc, khiến người dân xung quanh khu vực cảm thấy khó chịu, buồn nôn, đóng kín cửa vẫn không thoát được mùi hôi.
Tình trạng xả thải nước thải chưa xử lý ra môi trường không chỉ phát tán mùi hôi mà kéo dài sẽ gây ô nhiễm nguồn nước (theo ghi nhận, khu vực xung quanh nhà máy sản xuất cao su không thể dùng nước giếng khoan vì có mùi hôi), ảnh hưởng đến các sinh vật thủy sinh; ô nhiễm môi trường đất bị ô nhiễm nặng nề gây ảnh hưởng đến sự phát triển của thực vật; ác chất độc hại sẽ tích tụ, xâm nhập vào chuỗi thức ăn, gây ra các tác động tiêu cực đến sức khỏe con người, bao gồm các bệnh về da, hô hấp và các vấn đề về gan thận.
Mặc dù đã được phản ánh, xử lý nhưng trên thực tế không ít doanh nghiệp sau khi nhận phạt hành chính vẫn chây ỳ, tiếp tục gây ô nhiễm môi trường. Một số doanh nghiệp mặc dù đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải nhưng hiệu quả xử lý chưa cao, chưa đáp ứng tiêu chuẩn xả thải theo đúng quy định QCVN01-MT:2015/BTNMT, được cho là do chi phí đầu tư cao và thiếu hụt công nghệ tiên tiến.
Chính vì vậy, có thể thấy để giải quyết vấn đề ô nhiễm từ nước thải chế biến, sản xuất cao su một cách triệt, giảm thiểu tác động đến môi trường đòi hỏi cần có chính sách xử phạt mạnh tay hơn, đồng thời có phương án đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải, trang bị công nghệ xử lý hiện đại, thực hiện nghiêm ngặt.
>>> Xem thêm: Bí quyết xử lý nước thải cao su đạt chuẩn!